CHÙA THẦY (THIÊN PHÚC TỰ)
Nếu chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời ngài Từ Đạo Hạnh thì chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát xác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này. Chùa Thầy dựa vào sườn Tây Nam một ngọn núi đá vôi có nhiều hang động là núi Thầy tức núi Sài Sơn thuộc làng Hoàng Xá, xã Phượng Cách, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội khoảng 20km.
Trong một bài ký ghi trên vách núi, Chúa Trịnh đã phác họa cảnh chùa Thầy "như viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa". Ban đầu chữ Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh tu trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự) trên núi và chùa Dưới (tức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Đầu thế kỷ XVII, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân có hàm rồng. Thủy đình mọc lên giữa Long Chiểu, nơi thường diễn trò rối nước đặc sắc, chính là viên ngọc ở đầu rồng. Hai giếng là hai mắt rồng. Hai cầu cổ có mái ngói do Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan xây dựng năm 1602 là hai răng nanh của miệng rồng: Cầu Nhật Tiên ở bên trái trông vào đền Tam Phủ xây trên một đảo nhỏ giữa ao. Cầu Nguyệt Tiên ở bên phải dẫn vào đường lên chùa Cao trên núi. Đối diện với thủy đình là chùa Cả được xây dựng theo kiểu chữ "Tam" gồm 3 nếp nhà dựng trên nền cao bó đá hộc xanh. Nếp ngoài là nhà tiền tế, nếp giữa thờ Phật, nếp trong cùng thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Trong chùa có đặt 3 pho tượng diễn tả 3 "kiếp" của Thiền sư Từ Đạo Hạnh: Tãng, Phật và Đế Vương. Bên trái là tượng toàn thân Thiền sư bằng gỗ bạch đàn. Chính giữa là tượng Thiền sư khi đã thành Phật, đội mũ hoa sen, tay chắp trước ngực, khoác áo cà sa vóc vàng. Bên phải là tượng Thiền sư sau khi đã hóa, đầu thai làm con trai của Sùng Hiền Hầu và trở thành nhà vua Lý Thần Tông. Tượng Lý Thần Tông đầu đội mũ bình thiên, mình khoác long bào, ngồi trên ngai vàng. Trong chùa còn có tượng ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan là cha mẹ Từ Đạo Hạnh và hai bạn đồng đạo thân thiết của Ngài là Thiền sư Minh Không và Thiền sư Giác Hải. Hai bên chùa là hành lang dài thờ mười tám vị La Hán. Đường qua cầu Nguyệt tiên dẫn đến những bậc đá đi lên núi, nơi có chùa Cao vốn là Hiển Thụy am, còn có tên là Đỉnh Sơn Tự. Trên vách chùa còn khắc những bài thơ tức cảnh của Nguyễn Trực và Nguyễn Thượng Hiền. Tương truyền rằng động Phật Tích ở sau chùa là nơi Ngài Từ Đạo Hạnh thoát xác, nên còn gọi là hang Thánh Hóa. Phía trên chùa Cao có một mặt bằng gọi là chợ Trời với nhiều tảng đá hình bàn ghế, kệ bày hàng, ly rượu … trong đó có một phiến đá nhẵn lì được gọi là bàn cờ tiên. Có lẽ nơi đây ngày xưa các bậc trích tiên vẫn ngồi chơi cờ, uống rượu, thưởng trăng và ngâm thơ giữa thiên nhiên khoáng đạt như hình ảnh trong bài thơ của Nguyễn Khuyến:
Nếu chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời ngài Từ Đạo Hạnh thì chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát xác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này. Chùa Thầy dựa vào sườn Tây Nam một ngọn núi đá vôi có nhiều hang động là núi Thầy tức núi Sài Sơn thuộc làng Hoàng Xá, xã Phượng Cách, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội khoảng 20km.
Trong một bài ký ghi trên vách núi, Chúa Trịnh đã phác họa cảnh chùa Thầy "như viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa". Ban đầu chữ Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh tu trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự) trên núi và chùa Dưới (tức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Đầu thế kỷ XVII, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân có hàm rồng. Thủy đình mọc lên giữa Long Chiểu, nơi thường diễn trò rối nước đặc sắc, chính là viên ngọc ở đầu rồng. Hai giếng là hai mắt rồng. Hai cầu cổ có mái ngói do Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan xây dựng năm 1602 là hai răng nanh của miệng rồng: Cầu Nhật Tiên ở bên trái trông vào đền Tam Phủ xây trên một đảo nhỏ giữa ao. Cầu Nguyệt Tiên ở bên phải dẫn vào đường lên chùa Cao trên núi. Đối diện với thủy đình là chùa Cả được xây dựng theo kiểu chữ "Tam" gồm 3 nếp nhà dựng trên nền cao bó đá hộc xanh. Nếp ngoài là nhà tiền tế, nếp giữa thờ Phật, nếp trong cùng thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Trong chùa có đặt 3 pho tượng diễn tả 3 "kiếp" của Thiền sư Từ Đạo Hạnh: Tãng, Phật và Đế Vương. Bên trái là tượng toàn thân Thiền sư bằng gỗ bạch đàn. Chính giữa là tượng Thiền sư khi đã thành Phật, đội mũ hoa sen, tay chắp trước ngực, khoác áo cà sa vóc vàng. Bên phải là tượng Thiền sư sau khi đã hóa, đầu thai làm con trai của Sùng Hiền Hầu và trở thành nhà vua Lý Thần Tông. Tượng Lý Thần Tông đầu đội mũ bình thiên, mình khoác long bào, ngồi trên ngai vàng. Trong chùa còn có tượng ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan là cha mẹ Từ Đạo Hạnh và hai bạn đồng đạo thân thiết của Ngài là Thiền sư Minh Không và Thiền sư Giác Hải. Hai bên chùa là hành lang dài thờ mười tám vị La Hán. Đường qua cầu Nguyệt tiên dẫn đến những bậc đá đi lên núi, nơi có chùa Cao vốn là Hiển Thụy am, còn có tên là Đỉnh Sơn Tự. Trên vách chùa còn khắc những bài thơ tức cảnh của Nguyễn Trực và Nguyễn Thượng Hiền. Tương truyền rằng động Phật Tích ở sau chùa là nơi Ngài Từ Đạo Hạnh thoát xác, nên còn gọi là hang Thánh Hóa. Phía trên chùa Cao có một mặt bằng gọi là chợ Trời với nhiều tảng đá hình bàn ghế, kệ bày hàng, ly rượu … trong đó có một phiến đá nhẵn lì được gọi là bàn cờ tiên. Có lẽ nơi đây ngày xưa các bậc trích tiên vẫn ngồi chơi cờ, uống rượu, thưởng trăng và ngâm thơ giữa thiên nhiên khoáng đạt như hình ảnh trong bài thơ của Nguyễn Khuyến:
Hóa công xây đắp biết bao đời
Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời
Buổi sớm gió tuôn, trưa nắng gắt
Ban chiều mây họp tối trãng chơi
Bày hàng hoa quả tư mùa sẵn
Giãi thủ giang sơn bốn mặt ngồi
Bán lợi mua danh nào những kẻ
Chẳng lên mặc cả một đôi lời.
Theo lối mòn ven núi, leo lên vài chục bậc đá nữa sẽ đến hang Cắc Cớ, nơi tình tự của trai gái ngày xưa trong những ngày hội hè, như ca dao đã ghi lại:
Gái chưa chồng nhớ hang Cắc Cớ,
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy.
Từ hang Cắc Cớ, một con đường có nhiều cây đại thụ dẫn lên đền Thượng. Gần đền Thượng có hang Bụt Mọc với nhiều tảng đá được thời gian bào mòn trông như tượng Phật. Tiếp đó là hang Bò với lối vào âm u và hang Gió với những ngọn gió thổi thông thốc cả hai đầu. Ở chân núi Thầy, về phía Tây có chùa Bối Am còn gọi là chùa Một Mái, vì chùa chỉ có một mái lợp bằng ngói, còn mái kia chính là vòm hang. Nét độc đáo của thắng cảnh chùa Thầy là ở sự kết hợp giữa những con đường, những mái chùa vươn lên tầm cao, với những vẻ đẹp của hồ nước trải rộng và những bí ẩn trong chiều sâu lòng đất. Cả ba chiều không gian đó kết tụ lại trong một quần thể thiên nhiên đa dạng về kiến trúc và màu sắc. Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 7 tháng ba âm lịch hàng năm, là dịp để con người chiêm bái danh lam thắng cảnh này. Trong ngày hội, nhiều Tăng Ni từ các nơi khác trong vùng cùng về đây dự lễ trong những bộ cà-sa trang trọng, tay cầm gậy hoa, miệng tụng kinh trong tiếng mõ trầm đều. Lễ cúng Phật và trai đàn - một diễn xướng có tính chất tôn giáo - được thực hiện có sự phối hợp của các nhạc cụ dân tộc. Nhưng hội chùa Thầy không chỉ có những nghi thức tôn giáo. Ở đây còn có trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian mà ngày nay có tiếng vang ở cả nước ngoài. Trai thanh gái lịch gần xa tìm đến hội chùa Thầy còn để thỏa mãn tính mạo hiểm khi leo núi và khao khát bày tỏ tình yêu trong một khung cảnh thiên nhiên rộng mở:
Rủ nhau lên núi Sài Sơn
Ai làm đá ướt đường trơn hỡi mình?
Hỏi non, non những làm thinh
Phải rằng non đã vô tình với ai?
Nước non ví chẳng chiều đời
Mắt xanh đâu lẽ phụ người tình chung?
Yêu nhau ta dắt nhau cùng
Non bao nhiêu đá nặng lòng bấy nhiêu.
Cách
Hà Nội 37km về hướng Tây, ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất,
tỉnh Hà Tây có một quả núi cao khoảng 50m nằm trên một địa thế rất đẹp:
giữa một rừng cây cối tre trúc xanh rờn che kín những mái nhà tranh ẩn
trên sườn núi. Đó là núi Câu Lậu. Có tài liệu cho rằng sở dĩ ngọn núi này
có tên như vậy vì hình nó cong cong như chiếc lưỡi câu. Nhưng xét về từ
nguyên học, thì tên núi theo âm cổ vốn là "Klâu", nghĩa là núi Trâu, về
sau có sách vở ghi theo âm chữ Hán là Câu Lậu. Người ta sẽ hiểu được
điều này khi đứng từ xa nhìn ngọn núi này kết hợp với các ngọn đồi vùng
Kim Quan tạo thành một dãy núi đồi chạy dài từ Ba Vì xuống giữa đồng
bằng, trông chẳng khác nào một đàn trâu mà núi Câu Lậu là con trâu mẹ
đang quay đầu nhìn lại đàn con.Từ chân núi Câu Lậu, leo lên 239 bậc đá
ong, chúng ta sẽ đứng trước cổng danh lam thuộc loại tiêu biểu về nghệ
thuật kiến trúc và điêu khắc ở nước ta: Chùa Tây Phương, tên chữ là Sùng
Phúc Tự, còn có tên khác là Hoành Sơn Thiếu Lâm Tự.Năm 1632, vào đời
vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành
lang 20 gian. Khoảng những năm 1657 - 1682, Tây Đô Vương Trịnh Tạc lại
cho phá chùa cũ, xây lại chùa mới và tam quan. Đến năm 1794 dưới thời
Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là "Tây Phương Cổ
Tự" và hình dáng kiến trúc còn để lại như ngày nay.Bia chùa Tây Phương
lập năm 1924 có ghi lại sự việc "Sadi Thiết Tử, tên tự là Thanh Ngọc,
quê làng Cao Xá, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông, xuất gia từ nhỏ, đến
năm 1893 đến ở chùa Sùng Phúc tức chùa Tây Phương núi Câu Lậu. Vùng núi
này là nơi danh lam thắng cảnh tích phát anh tài, hương thiền phảng
phất. Vì vậy các thân hào kỳ lý trong xã họp lại nhất trí tu tạo và sửa
sang 3 tòa tự vũ, nhiều lần chấn chỉnh, đồng thời tạc tượng Quan Âm trăm
tay cùng tượng Thiện Tài Long Nữ. Cũng trong thời gian này còn tạc thêm
tượng Bát bộ Kim Cương, Thập bát La-hán vàng son lộng lẫy?".Chùa gồm 3
nếp nhà làm bằng gỗ lim rắn chắc xếp theo hình chữ "Tam": tòa bái đường,
tòa chính điện và tòa hậu cung. Ba tòa nhà này cách nhau 1,60m, tạo nên
một nhịp điệu kiến trúc độc đáo. Hệ thống cửa sổ hứng lấy ánh sáng lung
linh từ bên ngoài, tạo cho nội thất một khung cảnh thoát tục, phù hợp
với triết lý sắc sắc không không của nhà Phật.Mỗi nếp chùa có hai tầng
mái kiểu chồng diêm, tám mái và tám góc là các đầu đao vươn lên cong vút
với những đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng, phượng. Vật liệu xây
chùa chủ yếu là gạch Bát Tràng để trần, các cột gỗ đều kê trên tảng đá
xanh tròn khắc hình cánh sen. Mái lợp gồm hai lớp ngói: lớp trên là ngói
đầu mũi đúc hình lá đề nổi, lớp dưới là ngói lót hình vuông sơn ngũ
sắc. Xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình
lá triện cuốn, trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung.Khắp chùa hầu
như chỗ nào có gỗ là có chạm trổ những hình tượng trang trí quen thuộc
của dân tộc ta: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ
phù? rất tinh xảo.Du khách đến thăm chùa Tây Phương chưa hết bàng hoàng
trước vẻ đẹp hoành tráng của kiến trúc thì lại càng sửng sốt khi chiêm
ngưỡng thế giới sinh động của 72 pho tượng gỗ sơn son thếp vàng. Trên
đất nước ta không ở đâu có được một phòng triển lãm tuyệt vời và độc đáo
như thế với nghệ thuật điêu khắc tôn giáo nhưng lại phản ánh những đặc
điểm dân tộc của con người Việt Nam. 72 pho tượng gỗ của chùa Tây Phương
là 72 công trình nghệ thuật đích thực, mỗi pho tượng biểu hiện không
chỉ cuộc đời, tính cách mà cả thế giới tâm linh của các vị Phật, Bồ-tát
và La-hán. Hệ thống tượng ở chùa Tây Phương gồm:
1- Bộ tượng Tam Thế với ba pho tượng Phật: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai (còn gọi là Tam thân: Pháp thân, Ứng thân và Hóa thân) ngồi ở tư thế tọa thiền, y phục gập nếp đơn giản phủ kín cơ thể.
2- Bộ tượng Di-đà Tam Tôn: gồm tượng đức Phật A-di-đà, đứng hai bên là Bồ-tát Quan Âm và Bồ-tát Thế Chí.
3- Tượng Tuyết Sơn miêu tả đức Phật Thích-ca trong thời kỳ tu khổ hạnh: mỗi ngày ăn một hạt kê, một hạt vừng, tự hành xác để vươn lên thế giới tinh thần sáng láng. Tượng màu đen thẫm khoác áo cà sa mỏng, tay chân gầy khẳng khiu, xương nổi lên trước ngực. Toàn bộ cơ thể chìm trong suy tưởng, mắt trũng sâu, hướng về nội tâm.
4- Tượng đức Phật Di-lặc tượng trưng cho vị Phật của thế giới cực lạc tương lai. Người mập mạp, ngồi hơi ngả về phía sau, toàn thân toát ra sự thỏa mãn, sung sướng.
5- Tượng Bồ-tát Văn-thù: đứng chắp tay, chân đi đất, các ngón chân bấm móng xuống mặt bệ.
6- Tượng Bồ-tát Phổ Hiền: chắp tay trước ngực, khuôn mặt sáng rộng nổi lên trên tấm thân phủ đầy y phục.
7- Tượng Bát bộ Kim Cương, thể hiện trình độ rất cao về nghệ thuật lắp ghép gỗ và cách bố cục, chuyển động của một thân thể mang giáp trụ trong các thế võ.
8- Mười sáu pho tượng Tổ với phong cách hiện thực: Đó là Ưu-ba-cầu-đa, Đê-đa-ca, Di-trà-ca, Ba-tu-mật, Phật-đà Nan-đề, Phục-đa-mật-đa, Hiếp Tôn giả, Phương Nam Hòa Tu, Mã Minh, Ca-tỳ-ma-la, Long Thụ Tôn giả, La-hầu-la-đà, Tăng-già Nan-đề, Già-gia-xá-đa, Cưu-ma-la-đa, Chà-dạ-đa.
Thế giới tượng trong nội thất chùa Tây Phương đã từng là nguồn cảm hứng cho nhiều văn nhân, nghệ sĩ . Năm 1960, nhà thơ Huy Cận đến thăm chùa, đã làm những câu thơ rất sống động và gợi cảm về hình tượng những con người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy tưởng về những khổ đau quần quại của chúng sinh. Những pho tượng sống động này phản ánh những sự tích của nhà Phật, đồng thời biểu hiện thế giới tinh thần của những nghệ nhân đã sáng tạo ra. Tất cả những bộ phận trên cơ thể đều mang dấu vết của nỗi đau trần thế: mắt giương, mày nhíu xệch, trán như nổi sóng, môi cong chua chát, bàn tay cân vặn, đôi tai rộng dài ngang gối nghe đủ chuyện buồn vui của đời người. Tất cả các giác quan của con người như đều căng lên trong từng thớ gỗ:
1- Bộ tượng Tam Thế với ba pho tượng Phật: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai (còn gọi là Tam thân: Pháp thân, Ứng thân và Hóa thân) ngồi ở tư thế tọa thiền, y phục gập nếp đơn giản phủ kín cơ thể.
2- Bộ tượng Di-đà Tam Tôn: gồm tượng đức Phật A-di-đà, đứng hai bên là Bồ-tát Quan Âm và Bồ-tát Thế Chí.
3- Tượng Tuyết Sơn miêu tả đức Phật Thích-ca trong thời kỳ tu khổ hạnh: mỗi ngày ăn một hạt kê, một hạt vừng, tự hành xác để vươn lên thế giới tinh thần sáng láng. Tượng màu đen thẫm khoác áo cà sa mỏng, tay chân gầy khẳng khiu, xương nổi lên trước ngực. Toàn bộ cơ thể chìm trong suy tưởng, mắt trũng sâu, hướng về nội tâm.
4- Tượng đức Phật Di-lặc tượng trưng cho vị Phật của thế giới cực lạc tương lai. Người mập mạp, ngồi hơi ngả về phía sau, toàn thân toát ra sự thỏa mãn, sung sướng.
5- Tượng Bồ-tát Văn-thù: đứng chắp tay, chân đi đất, các ngón chân bấm móng xuống mặt bệ.
6- Tượng Bồ-tát Phổ Hiền: chắp tay trước ngực, khuôn mặt sáng rộng nổi lên trên tấm thân phủ đầy y phục.
7- Tượng Bát bộ Kim Cương, thể hiện trình độ rất cao về nghệ thuật lắp ghép gỗ và cách bố cục, chuyển động của một thân thể mang giáp trụ trong các thế võ.
8- Mười sáu pho tượng Tổ với phong cách hiện thực: Đó là Ưu-ba-cầu-đa, Đê-đa-ca, Di-trà-ca, Ba-tu-mật, Phật-đà Nan-đề, Phục-đa-mật-đa, Hiếp Tôn giả, Phương Nam Hòa Tu, Mã Minh, Ca-tỳ-ma-la, Long Thụ Tôn giả, La-hầu-la-đà, Tăng-già Nan-đề, Già-gia-xá-đa, Cưu-ma-la-đa, Chà-dạ-đa.
Thế giới tượng trong nội thất chùa Tây Phương đã từng là nguồn cảm hứng cho nhiều văn nhân, nghệ sĩ . Năm 1960, nhà thơ Huy Cận đến thăm chùa, đã làm những câu thơ rất sống động và gợi cảm về hình tượng những con người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy tưởng về những khổ đau quần quại của chúng sinh. Những pho tượng sống động này phản ánh những sự tích của nhà Phật, đồng thời biểu hiện thế giới tinh thần của những nghệ nhân đã sáng tạo ra. Tất cả những bộ phận trên cơ thể đều mang dấu vết của nỗi đau trần thế: mắt giương, mày nhíu xệch, trán như nổi sóng, môi cong chua chát, bàn tay cân vặn, đôi tai rộng dài ngang gối nghe đủ chuyện buồn vui của đời người. Tất cả các giác quan của con người như đều căng lên trong từng thớ gỗ:
Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.
Từ những biểu
hiện sinh động đó của nỗi đau đời thương người, nhà thơ rút ra một nét
đặc trưng chung của các vị: niềm băn khoăn, day dứt trước lẽ tử sinh, ý
nghĩa và hướng đi của cuộc đời. Câu hỏi đè nặng tâm hồn các vị không tìm
lấy sự giải thoát cho riêng mình mà tìm sự giải thoát cho cả chúng
sinh.
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời
sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
Câu hỏi
đó không chỉ ám ảnh những con người sống trong buổi hoàng hôn của một
thế kỷ chìm trong đau thương, mà vẫn còn là nỗi băn khoăn day dứt khôn
nguôi của con người trên con đường đến Chân - Thiện - Mỹ.
CHÙA
HƯƠNG
Ngày trước có một người con gái mùa xuân theo cha mẹ đi trẩy hội chùa Hương đã phải lòng một chàng trai tài hoa phong nhã. Tâm tình của cô gái ấy với những lời lẽ e ấp vụng dại đã được nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp ghi lại qua một thiên ký sự bằng thể thơ năm chữ nổi tiếng trên đất Việt hơn nửa thế kỷ qua. Ngày nay cảnh vật Hương Sơn có khác đi ít nhiều, nhưng hành trình đến chùa Hương vẫn là một cuộc hành trình trở về thiên nhiên và cội nguồn. Chúng ta hãy lần theo dấu chân cô gái ngày trước mà tìm đến với "Nam thiên đệ nhất động" (Động đẹp nhất trời Nam). Chùa Hương nằm trên địa bàn xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội 60km. Thật ra chùa Hương không phải là một ngôi chùa mà là một hệ thống chùa chiền, đền thờ và hang động nằm trong khu vực có những ngọn núi đá vôi và rừng nhiệt đới, diện tích tất cả khoảng chừng 6km2. Theo truyền thuyết, vùng núi có hang động này được tìm thấy cách đây hơn hai nghìn năm và đã được đặt tên Hương Sơn - lấy tên một ngọn núi ở phía Bắc Tuyết Sơn trong dãy Himalaya (Ấn Độ), nơi đức Phật đã ngồi tu khổ hạnh suốt 6 năm ròng rã. Đời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã có am thờ Phật dựng trên mảnh dất chùa Thiên Trù. Theo sách Hương Sơn Thiên Trù thiên phú thì chùa Hương được xây dựng từ đời Lê Huy Tông niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1705). Bia tại chùa Thiên Trù có ghi rằng việc xây dựng nền đất, bậc đá và tôn tạo Kim Dung bảo điện của chùa được thực hiện vào năm 1686; còn pho tượng chính trong chùa - tượng Bồ-tát Quan Âm - xưa kia vốn bằng đồng được đúc năm 1767. Hàng năm, hội chùa Hương mở từ ngày mồng sáu tháng giêng đến rằm tháng ba âm lịch , trải dài trên ba tuyến chính: tuyến động Hương Tích, tuyến chùa Tuyết và tuyến chùa Long Vân. Trên thực tế, suốt trong tháng giêng và tháng hai, cảnh chùa luôn luôn đông vui tấp nập và khách thập phương chủ yếu vãn cảnh chùa theo tuyến động Hương Tích. Từ Hà Nội, đi xe vào thị xã Hà Đông, lên thị trấn Vân Đình, qua gần 20km nữa là tới Bến Đục, nằm bên bờ sông Đáy. Đây là cửa ngõ vào khu danh lam thắng cảnh, thuyền đò chen chúc. Từ Bến Đục, khách đi bộ gần 1km sẽ đến bến đò để lên thuyền xuôi theo một dòng suối có tên là Yến Vĩ (đuôi con chim én).
Thuyền đưa du khách lướt bên những ngọn núi đá nên thơ như núi Voi, núi Rồng cùng với nhịp cầu ở phía xa gợi lên khung cảnh non Tiên nước Phật:
Réo rắt suối đưa quanh
Ven bờ, ngọn núi xanh
Dịp cầu xanh nho nhỏ
Cảnh đẹp gần như tranh
Đến đền Trình, thuyền ghé vào để du khách "trình diện" với sơn thần sở tại trước khi đặt chân lên cõi Phật. Đền nằm dưới chân một quả núi dựng lên năm ngọn nên được đặt tên là Ngũ Nhạc. Đền còn có tên Quan Lớn, thờ một bộ tướng của vua Hùng. Rời đền Trình, du khách tiếp tục cuộc hành trình bằng đường thủy ngắm cảnh hai bên dòng suối:
Sau núi Oản, Gà, Xôi
Bao nhiêu là khỉ ngồi
Tới núi con Voi phục
Có đủ cả đầu đuôi.
Thuyền dừng ở Bến Trò cho du khách bước lên khu vực chùa Thiên Trù (Bếp Trời), tức là chùa Ngoài. Ngày xưa, chùa được xây khuất trong bốn vách núi, có đến vài chục gian, nhưng đã bị tàn phá trong chiến tranh. Nam Thiên môn được xây dựng dưới triều vua Gia Long (năm 1809) cũng bị phá hủy. Một kiến trúc cổ còn lại là Viên Công bảo tháp được xây dựng từ thế kỷ XVII, nơi đặt xá lợi Thiền sư Viên Quang, người có công trùng tu chùa Hương sau nhiền năm hoang phế. Nhìn từ xa, tháp như cây bút hồng ngọn vút cao lên trời. Ở đây còn có Thiên Thủy tháp là một mỏm đá mọc ngược thành một cây tháp thiên tạo, nước mưa trên núi theo tháp chảy xuống. Năm 1986, chùa Thiên Trù đã được phục dựng lại gác chuông và đến năm 1989 thì xây xong nhà Tam bảo hai tầng theo kiểu chữ "Đinh". Đầu năm 1994, chùa đã xây dựng lại Nam Thiên môn (cửa trời Nam) theo nguyên mẫu.Từ khu vực chùa Ngoài, du khách lần theo con đường dốc trên các sườn núi đá để ghé thăm chùa Tiên Sơn xây trong động giữa lòng một quả núi, có bốn pho tượng quí bằng hồng thạch. Tiếp đó là chùa Giải Oan, nơi có giếng nước trong vắt gọi là "Thiên nhiên thanh trì" hay còn gọi là giếng Long Tuyền. Trước chùa có suối chín nguồn gọi là suối Giải Oan. Gần chùa là động Tuyết Kinh và am Phật Tích, nơi có tảng đá tương truyền lưu dấu chân Quan Âm Bồ-tát. Cách đó không bao xa, du khách bước chân đến núi Chấn Song để thăm viếng cửa Võng. Đích xa nhất mà du khách vãn cảnh chùa muốn đạt đến là động Hương Tích nằm sâu ở phía trong. Du khách bước qua một cổng lớn ở phía trên, rồi theo những bậc đá rộng đi xuống động. Cửa động trông như hàm rồng, phía trong có năm chữ Hán "Nam Thiên đệ nhất động", tạc vào đá, tương truyền là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm khắc vào năm 1770. Hai hàng cây cổ thụ tầng cao bóng cả chen cành kết lá phủ lên cửa động. Ánh nắng lọt qua lá cây tạo nên một thứ ánh sáng mờ ảo trải trên các bậc đá, cộng với khói hương từ lòng động bay lên tạo thành một không gian huyền diệu như lời ca trong bài hát Chùa Hương của Nhạc sĩ Hoàng Quý: "Chùa Hương khói trầm ngút bay những khi nắng tàn, phút giây chìm đắm trong mơ màng". Vào trong động, du khách chiêm ngưỡng tượng Bà Chúa Ba (Bồ-tát Quan Thế Âm) cùng nhiều tượng Phật, Bồ-tát. Trên vách động thạch nhũ rủ xuống muôn hình muôn vẻ, màu sắc biến ảo: hình Đụn Gạo, Đụn Tiền, Cây Vàng, Cây Bạc, Buồng Tằm, Nong Kén, Hòn Cậu, Hòn Cô. Trên trần động thạch nhũ còn nhô ra thành hình chín đầu rồng sinh động gọi là tòa Cửu Long. Ngắm nhìn những dáng hình kỳ tú đó của thiên nhiên, cô gái trong thơ Nguyễn Nhược Pháp đã thốt lên:
Ôi! Chùa Trong đây rồi!
Động thắm bóng xanh ngời
Gấm thêu trần thạch nhũ
Ngọc nhốm hương trần rơi.
Còn nhà thơ Chu Mạnh Trinh ở thế kỷ trước thì cảm tác thành bài Thú Hương Sơn nổi tiếng:
Bầu trời cảnh bụt
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây
"Đệ nhất động" hỏi rằng đây có phải!
Nhác trông lên ai khéo họa hình
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây?
Như trên đã nói, ngoài động Hương Tích, du khách còn có thể rẽ qua rừng mơ thăm chùa Hinh Bồng, theo suối Tuyết vào đền Mẫu Hạ rồi đến núi Thuyền Rồng, núi Con Phượng, hòn Đầu Sư Tử, vách đá Kỳ Sơn Tú Thủy và sau đó đến bến Tuyết Sơn vào chùa Bảo Đài. Leo núi đến Bạch Tuyết môn, vào điện Cô, du khách tới thăm chùa Tuyết Sơn còn có tên là Ngọc Long động. Nơi đây, vào năm 1770, Trịnh Sâm có làm bài thơ Đăng Tuyết sơn hữu hứng. Ở hướng khác, một nhánh của dòng suối Yến đưa du khách qua núi Ông Sư Bà Vãi, lên thuyền vào thăm chùa Long Vân, leo núi thăm chùa Cây Khế, và hang Sũng Sàm, một di chỉ khảo cổ ghi dấu tích người xưa. Giã từ cảnh đẹp Hương Sơn, du khách có thể mang về làm kỷ vật một gậy trúc đã chống trên đường hành hương, vài mảnh gốc mơ già để pha nước uống, những quả mơ dày cùi nhỏ hạt và mấy mớ rau đắng nấu canh hương vị thơm ngon. Nhưng cái quí nhất mà người đi chùa Hương có được là một tâm hồn như đã tẩy sạch bụi trần, lâng lâng một niềm vui thoát tục với những ấn tượng không phai mờ về một chốn Thiên Thai ngay trên trần gian như ca dao đã miêu tả:
Một vùng non nước bao la
Rằng đây Lạc quốc hay là Đào nguyên
Hương Sơn là chốn non tiên
Bồng lai mà thấy ở miền trần gian.
Bến thuyền cập vào đền Trình trên đường đến chùa Hương
Hoa gạo chùa Hương đỏ chói vẫy chào du khách.
Sân chùa Thiên Trù
Chùa Thiên Trù với lễ hội
Động Hương Tích, "Nam Thiên đệ nhất động" (Ðộng đẹp nhất trời Nam)
Chùa Hương là một ngôi chùa nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, nằm ven bờ phải sông Đáy. Chùa Hương nằm trong động Hương Tích và là trung tâm của cụm đền chùa tại vùng này. Chùa Hương còn gọi là chùa Trong.
Ngôi chùa được xây dựng với quy mô chính vào khoảng cuối thế kỷ 17.
Hội chùa Hương hàng năm bắt đầu từ sau tết Nguyên Ðán, kéo dài từ giữa tháng 1 đến giữa tháng 3 âm lịch. Mỗi mùa hội có tới ba, bốn chục vạn người đến chùa Hương. Từ cụ già sáu, bảy chục tuổi đến em nhỏ được bố mẹ cõng trên lưng đều nô nức đi hội. Gặp nhau trên đường vào chùa, tất cả đều chào nhau bằng câu niệm Phật: "A-di-đà-Phật".
Ðiều hấp dẫn của chùa Hương là cảnh núi cao, rừng thẳm, suối dài được kết hợp hài hoà, xếp đặt tài tình giữa một vùng đồng bằng ruộng lúa xanh tươi.
Nếu chỉ đi chương trình một ngày, du khách hãy thăm động đẹp nổi tiếng nhất: Hương Tích. Thế kỷ 17, chúa Trịnh Sâm đến vãn cảnh động, đã tự tay đề năm chữ Hán lên cửa động "Nam Thiên đệ nhất động" (Ðộng đẹp nhất trời Nam). Ðộng được tìm ra cách đây hơn 2.000 năm. Bước vào động, một sắc cảnh kỳ diệu hiện ra trong ánh sáng huyền ảo. Chính giữa động có pho tượng đức Phật Quan Thế Âm Bồ Tát. Xung quanh là nhũ đá tạo thành những hình cây vàng, cây bạc, buồng tằm, nong kén, núi cô, núi cậu... và đây là toà cửu long hình chín con rồng nhũ đá long lanh ánh biếc đang châu đầu xuống trần thế.. Đường xuống hang chùa là một dốc gồm 120 bậc lát đá. Vách trước cửa động có năm chữ Hán Nam thiên đệ nhất động khắc năm 1770 đời chúa Trịnh Sâm.
Vào trong động vẻ đẹp lạ thường của những nhũ đá tưởng như những công trình điêu khắc tuyệt tác của thiên nhiên. Nhũ đá ở đây có khối to, có khối nhỏ, có cái đẹp ở toàn khối, có cái đẹp ở dáng dấp tinh vi, có cái rủ từ trên trần xuống, có cái mọc từ dưới đất lên. Tất cả đều tùy theo hình dáng mà được đặt những cái tên rất trần thế, biểu hiện những mơ ước của con người. Trước hết là Đụn Gạo đồ sộ, bước vào cửa động đã trông thấy. Gạo là cái quan trọng hàng đầu nên Đụn Gạo trong động nhà Phật cũng ở vào vị trí hàng đầu. Dưới chân Đụn Gạo có một hõm đá nhỏ xíu gọi là Cối Giã. Gần Đụn Gạo là Núi Cô và Núi Cậu. Núi Cô nhỏ hơn Núi Cậu nhưng giống nhau ở chỗ có những hình em bé nằm nghiêng, nằm sấp hoặc đang bò lổm ngổm, đầu nhẵn thín. Núi Cậu ngang tầm với Sữa Mẹ quanh năm suốt tháng rỏ xuống không ngừng.
Cùng một hàng dọc với Núi Cô, Núi Cậu và lui vào phía trong là Cây Bạc, Cây Vàng ngồn ngộn chất chứa những hình tròn như những đồng tiền vàng bạc lấp lánh. Vào trong góc động gần tận cùng sẽ thấy Chuồng Lợn, Ao Bèo, Nong Tằm, Né Kén... Toàn là những hình ảnh bằng nhũ đá. Trên trần động thạch nhũ còn nhô ra thành hình chín đầu rồng sinh động gọi là tòa Cửu Long.
Giá trị nhất về mặt nghệ thuật điêu khắc, không những trong chùa Hương mà kể cả trong toàn bộ hệ thống chùa chiền ở Hương Sơn là pho tượng Phật Quan Âm bằng đá xanh tạc vào thời Tây Sơn. Pho tượng bằng đá, có dáng người thon thon, mặt trái xoan, nét thanh tú, đầu đội mũ Tì Lư (tức là mũ Bồ Tát) nhưng lại có búi tóc và tóc mai, sau lưng có hai món tóc buông xuống. Tượng ngồi ở tư thế đặc biệt, tay phải cầm viên ngọc minh châu, chân trái duỗi, đặt trên một bông sen nở, chân phải co, dưới chân cũng có một bông sen. Theo bài ký khắc trên đá năm 1806 thì pho tượng này được tạc năm1793.
Trong động Hương Tích còn có quả chuông đồng cao 1,24 m, đường kính đáy 0,63 m đúc năm Thịnh Đức thứ 3 (1655).
Hội chùa Hương hàng năm bắt đầu từ sau tết Nguyên Ðán, kéo dài từ giữa tháng 1 đến giữa tháng 3 âm lịch. Mỗi mùa hội có tới ba, bốn chục vạn người đến chùa Hương. Từ cụ già sáu, bảy chục tuổi đến em nhỏ được bố mẹ cõng trên lưng đều nô nức đi hội. Gặp nhau trên đường vào chùa, tất cả đều chào nhau bằng câu niệm Phật: "A-di-đà-Phật".
Ðiều hấp dẫn của chùa Hương là cảnh núi cao, rừng thẳm, suối dài được kết hợp hài hoà, xếp đặt tài tình giữa một vùng đồng bằng ruộng lúa xanh tươi.
Nếu chỉ đi chương trình một ngày, du khách hãy thăm động đẹp nổi tiếng nhất: Hương Tích. Thế kỷ 17, chúa Trịnh Sâm đến vãn cảnh động, đã tự tay đề năm chữ Hán lên cửa động "Nam Thiên đệ nhất động" (Ðộng đẹp nhất trời Nam). Ðộng được tìm ra cách đây hơn 2.000 năm. Bước vào động, một sắc cảnh kỳ diệu hiện ra trong ánh sáng huyền ảo. Chính giữa động có pho tượng đức Phật Quan Thế Âm Bồ Tát. Xung quanh là nhũ đá tạo thành những hình cây vàng, cây bạc, buồng tằm, nong kén, núi cô, núi cậu... và đây là toà cửu long hình chín con rồng nhũ đá long lanh ánh biếc đang châu đầu xuống trần thế.. Đường xuống hang chùa là một dốc gồm 120 bậc lát đá. Vách trước cửa động có năm chữ Hán Nam thiên đệ nhất động khắc năm 1770 đời chúa Trịnh Sâm.
Vào trong động vẻ đẹp lạ thường của những nhũ đá tưởng như những công trình điêu khắc tuyệt tác của thiên nhiên. Nhũ đá ở đây có khối to, có khối nhỏ, có cái đẹp ở toàn khối, có cái đẹp ở dáng dấp tinh vi, có cái rủ từ trên trần xuống, có cái mọc từ dưới đất lên. Tất cả đều tùy theo hình dáng mà được đặt những cái tên rất trần thế, biểu hiện những mơ ước của con người. Trước hết là Đụn Gạo đồ sộ, bước vào cửa động đã trông thấy. Gạo là cái quan trọng hàng đầu nên Đụn Gạo trong động nhà Phật cũng ở vào vị trí hàng đầu. Dưới chân Đụn Gạo có một hõm đá nhỏ xíu gọi là Cối Giã. Gần Đụn Gạo là Núi Cô và Núi Cậu. Núi Cô nhỏ hơn Núi Cậu nhưng giống nhau ở chỗ có những hình em bé nằm nghiêng, nằm sấp hoặc đang bò lổm ngổm, đầu nhẵn thín. Núi Cậu ngang tầm với Sữa Mẹ quanh năm suốt tháng rỏ xuống không ngừng.
Cùng một hàng dọc với Núi Cô, Núi Cậu và lui vào phía trong là Cây Bạc, Cây Vàng ngồn ngộn chất chứa những hình tròn như những đồng tiền vàng bạc lấp lánh. Vào trong góc động gần tận cùng sẽ thấy Chuồng Lợn, Ao Bèo, Nong Tằm, Né Kén... Toàn là những hình ảnh bằng nhũ đá. Trên trần động thạch nhũ còn nhô ra thành hình chín đầu rồng sinh động gọi là tòa Cửu Long.
Giá trị nhất về mặt nghệ thuật điêu khắc, không những trong chùa Hương mà kể cả trong toàn bộ hệ thống chùa chiền ở Hương Sơn là pho tượng Phật Quan Âm bằng đá xanh tạc vào thời Tây Sơn. Pho tượng bằng đá, có dáng người thon thon, mặt trái xoan, nét thanh tú, đầu đội mũ Tì Lư (tức là mũ Bồ Tát) nhưng lại có búi tóc và tóc mai, sau lưng có hai món tóc buông xuống. Tượng ngồi ở tư thế đặc biệt, tay phải cầm viên ngọc minh châu, chân trái duỗi, đặt trên một bông sen nở, chân phải co, dưới chân cũng có một bông sen. Theo bài ký khắc trên đá năm 1806 thì pho tượng này được tạc năm1793.
Trong động Hương Tích còn có quả chuông đồng cao 1,24 m, đường kính đáy 0,63 m đúc năm Thịnh Đức thứ 3 (1655).
CHÙA MÍA (SÙNG NGHIÊM TỰ)
Vào thế kỷ XVII ở làng Mía, nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây, có bà Nguyễn Thị Dong tức Nguyễn Thị Ngọc Diệu là vợ của Chúa Thanh Đo Vương Trịnh Tráng, nên còn được gọi là Bà Chúa Mía. Một trong những công đức mà Bà Chúa Mía để lại cho quê hương là đã đứng ra hưng công đại trùng tu ngôi chùa Mía, tức Sùng Nghiêm Tự (nguyên được dựng từ đời Trần) vào năm 1632.Nằm trên một ngọn đồi đá ong, lúc đầu chùa Mía chỉ có` cổng và hai tòa thượng điện, hậu đường, mỗi tòa 7 gian dựng song song. Chùa được tu bổ và hoàn chỉnh dần vào thế kỷ XVII và XIX.Khuôn viên chùa được chia làm ba khu tương đối tách bạch nhau: ngoài cùng là cửa tam quan trông ra một bãi đất rộng bên cạnh là chợ Mía. Trên gác có treo một chuông đồng đúc năm 1743 và một khánh đồng đúc năm 1846.Qua khỏi tam quan là hai khoảng sân liên tiếp, cách nhau bởi một cổng gạch giữa bức tường hoa cánh gà. Ở góc phải sân thứ nhất có một cây đa khoảng vài trăm tuổi, kế cây đa là Liên Đài bảo tháp cao 13,5m. Sân thứ hai có những bồn hoa và hòn non bộ. Phía bên trái có dãy nhà tổ và nhà trai.Nằm trên độ cao cách sân 7 bậc thềm là khu chùa chính gồm: tiền đường, trung điện, nhà thiêu hương, hành lang và hậu điện. Tiền đường gồm 5 gian 2 chái, gian bên trái có một tấm bia dựng năm 1632 đặt trên lưng rùa, nội dung ghi lại sự tích Bà Chúa Mía xây chùa. Trung điện và hậu điện được nối với nhau bởi hai dãy hành lang quanh nhà thiêu hương. Trung điện và nhà thiêu hương nối vào nhau theo kiểu chuôi vồ.Nghệ thuật điêu khắc ở chùa Mía nổi bật ở những đường nét chạm trổ tinh vi trên tòa gác chuông với các góc mái đều gắn đao triện, ở các hàng lan can, các ván long, xà nách? Nhưng di sản đáng quí nhất ở chùa là 287 pho tượng lớn nhỏ, trong đó một nửa tạc bằng gỗ, một nửa bằng đất luyện, sơn son thếp vàng. Tiêu biểu là tượng hai vị Hộ Pháp cao gần tới nóc nhà, tượng Bát bộ Kim Cương bằng đất luyện khắc họa những nét điển hình về ngoại hình, dung mạo của những con người giàu tinh thần thượng võ, sẵn sàng bảo vệ chính pháp. Chùa có tôn trí tượng Tuyết Sơn, biểu hiện đức Phật Thích-ca thời kỳ tu khổ hạnh, thân thể gầy gò đến mức tất cả xương cốt đều lộ ra, nhưng thần sắc của tư duy thì vẫn tồn tại. Chùa Mía còn có một tuyệt tác về điêu khắc là pho tượng Quan Âm tống tử, thường gọi là tượng Bà Thị Kính. Với đường nét chạm khắc mềm mại và sinh động, pho tượng này tái hiện hình ảnh một người phụ nữ Việt Nam hiền hòa, tay ẫm đứa bé bụ bẫm, vẻ mặt đượm buồn, mắt nhìn xuống đầy vẻ chịu đựng và bao dung.Người làng Mía tự hào về pho tượng là điều dễ hiểu:
Nổi danh chùa Mía làng ta,
Có pho Tống Tử Phật Bà Quan Âm.
Có pho Tống Tử Phật Bà Quan Âm.
Chùa Trăm Gian ở Hà Tây gắn liền với truyền thuyết về một vị cao tăng tên là Nguyễn Lữ (hoặc Nhữ) hiệu là Bình An, quê ở Bối Khê, huyện Thanh Oai, Hà Tây, được người đời gọi là đức Thánh Bối. Truyền thuyết kể rằng vào đời Trần, ở làng Bối Khê có một người phụ nữ nằm mộng thấy đức Phật giáng sinh, rồi có mang, sinh ra một con trai. Năm lên 6 tuổi, cha mẹ mất, người con phải đi chăn trâu, nhưng rất mộ đạo Phật, thường làm bàn thờ cúng lễ. Đến năm 9 tuổi, người con trai ấy bỏ nhà vào tu ở chùa Đại Bi trong làng. Lên 15 tuổi, đi vân du khắp nơi, đến thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Hoài Đức, Hà Tây ngày nay, thấy cảnh đẹp, Người xin yết kiến và theo học kinh kệ với vị trưởng lão tu tại ngôi chùa trên núi. Mười năm học đạo, người thanh niên đó hiểu thấu mọi phép linh thông. Vua Trần nghe tiếng, sắc phong là Hòa Thượng, đặt đạo hiệu là Đức Minh rồi mời về tu ở chùa trong kinh đô.Sau khi vị trưởng lão ở chùa Tiên Lữ viên tịch, Hòa Thượng Đức Minh xin về làng dựng ngôi chùa mới. Tương truyền rằng Ngài có phép hóa cỗ bàn cơm chay, thợ xây chùa ăn mãi không hết. Khi chùa dựng xong, Hòa thượng mang guốc gỗ đi qua đi lại trên kèo như đi trên mặt đất, ai nấy đều bái phục vái lạy phép thần thông của Ngài. Năm 95 tuổi, Ngài ngồi vào một cái khám gỗ, từ biệt đệ tử rồi siêu thoát. Một trăm ngày sau, đệ tử mở cửa khám, kim quang Ngài bay mùi thơm nức, ngào ngạt gần xa. Dân làng và đệ tử xây tháp để gìn giữ kim thân và tôn thờ là đức Thánh Bối.Sách Lĩnh Nam chích quái cũng có ghi sự tích đức Thánh Bối có thể làm mưa, gọi gió. Truyền thuyết còn kể rằng vào đầu thế kỷ XV, quân Minh xâm lược nước ta, có một toán giặc nghe nói chùa Tiên Lữ rất thiêng, bèn phóng hỏa đốt chùa, phá tượng. Đức Thánh Bối nổi giận hóa phép làm ra một trận mưa kéo dài ba ngày ba đêm, nước đỏ như máu, dâng cao tới ba thước dìm chết hết lũ giặc bạo ngược kia. Sau đó một đám mây năm sắc hiện lên nền trời, cuộc sống thanh bình trở lại, ngôi chùa vẫn nguyên như cũ. Dân làng quanh năm hương khói, mỗi khi gặp đại hạn, làm lễ cầu mưa tại chùa, rất được linh ứng. Các triều vua sau đều phong đức Thánh Bối là "Thượng đẳng tối linh Đại Thánh".Trên đây là sự tích chùa Trăm Gian ở làng Tiên Lữ, còn có tên là Quảng Nghiêm Tự. Nhiều tài liệu ghi rằng chùa được lập năm 1185 đời vua Lý Cao Tông. Đây vốn là ngôi chùa một gian hai trái nằm trên một quả núi cao 50m gọi là núi Mã, xung quanh có nhiều cây cổ thụ tuổi khoảng vài thế kỷ như trám, trắc, thông, tàn lá xòe rộng tỏa bóng mát che rợp mái chùa.Qua nhiều lần trùng tu, ngôi chùa hiện nay bao gồm ba cụm kiến trúc chính, với tất cả 104 gian. Cụm thứ nhất ở lối ra vào gồm có hai trụ cột cao với hai quán ở hai bên, trước đây là nơi đánh cờ người trong ngày hội. Tiếp đó là nhà Giá Ngự nhìn ra hồ sen, nơi đặt kiệu Thánh để xem trò múa rối nước. Cụm thứ hai nằm trên một độ cao hơn một trăm bậc gạch xây. Tại đây có gác chuông cao 2 tầng 8 mái tách hẳn lên phía trước mang dấu ấn nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc thế kỷ XVI - XVII. Quả chuông đúc năm 1794 có khắc một bài minh của Phan Huy Ích. Muốn lên cụm thứ ba, phải leo 25 bậc đá xanh đến sân trên, rồi lại leo 9 bậc đá có lan can chạm hình rồng cuộn khúc. Đây là chùa chính gồm nhà bái đường, tòa thiêu hương, thượng điện, hai dãy hành lang, nhà tổ và lầu trống. Chùa có 3 gian thờ chính: gian thờ Phật; gian thờ Thánh; gian thờ Quan Âm, gia đình Đô đốc Đặng Tiến Đông, một tướng lĩnh của vua Quang Trung, là người có công trùng tu ngôi chùa.Trong 153 pho tượng ở chùa mà hầu hết làm bằng gỗ, đáng chú ý nhất về mặt lịch sử là tượng Đô đốc Đặng Tiến Đông và tượng đức Thánh Bối, cốt đan bằng mây, ngoài bọc vải sơn, đặt trong khám gỗ. Ngoài ra, tượng Tuyết Sơn, tượng Quan Âm, bộ Thập bát La-hán cũng là những công trình điêu khắc độc đáo.
Nguồn tư liệu: DANH LAM NƯỚC VIỆT của Võ Văn Tường và Huỳnh Như Phương
Ảnh: HV
No comments:
Post a Comment